công dụng của mỡ hổ

Rượu rắn hổ có tất cả công dụng điều trị sút đau xương khớp, nhức dây thần kinh, tăng sức đề kháng, góp trí năng minch mẫn, sáng suốt rộng. Một số để ý khi thực hiện rắn hổ mang - Mật rắn hổ với không dành cho thiếu nữ với tnhì, vẫn rong tởm, băng huyết Công nghệ chế biến dầu giúp tăng giá trị cho cá tra, cá ba sa. Ảnh: NVCC. Theo PGS.TS Lê Đức Mạnh, dầu cá rất ít được sử dụng vì có mùi tanh, rất khó chịu. Nhưng nhờ áp dụng công nghệ cao, sục nhiệt độ chân không hút mùi tanh, dầu vẫn có chất lượng cao, không tanh. Rắn Hổ mang bơi giỏi nhưng không sống dưới nước, màu sắc thân thường có màu nâu đen, hoặc đều một màu. Là một loại rắn rất hay tức giận, tự vệ rất hăng, khi tức giận thì đầu cất cao, thân phía trên đứng thẳng lên, cổ bạnh ra phun phì phì khi bị tấn công Sinh Long Đường xin giới thiệu với bạn đọc từng bài thuốc có cao hổ cốt, từng công dụng của các bộ phận trên cơ thể hổ đối với việc phòng và chữa bệnh. (Mỡ hổ) dầm với rượu nóng uống chữa được thương tích do đập đánh, chấn thương. Mỡ hổ trộn với Nội dung tóm tắt: Nội dung về Mỡ Hổ Có Tác Dụng Gì + Trị trẻ con yếu ớt xương, bạn già thận hư xương yếu hèn, nhức thắt lưng, yếu hèn chân: Hổ hỉnh cốt, Mộc qua, Thiên ma, Nhục thrảnh, Ngưu tất, …. Nội dung hay nhất: Tác dụng: Khu phong, hoạt lạc, đồng thời có tác dụngmạnh gân cốt, trị bại liệt. Dẫn nguồn: …. On Peut Se Rencontrer Traduction Anglais. Mục lụcMô tảPhân bố, sinh tháiBộ phận dùngThành phần hóa họcTính vị, công năngCông dụng Mô tả Thú ăn thịt, cỡ lớn, to và khỏe, nặng 100- 150 kg. Thân thẳng, dài 1,3 – 1,6m. Đầu to, cổ và tai ngắn, mắt sáng, chân dài khỏe, có móng vuốt nhọn và sắc. Đuôi dài 0,6m – 0,7m. Bộ lông màu vàng nhạt đến vàng sẫm hơi nâu, có vằn đen hoặc nâu đen, toàn đuôi có vòng nâu đen không đều. Phía bụng, sau tai, cằm và họng màu trắng nhạt. Còn có hổ bạch rất hiếm. Căn cứ vào các đặc tính của hình thái, màu sắc, đường vằn, bộ lông, các nhà khoa học đã phân chia hổ thành 8 giống khác nhau. Đó là Panthera tigrisaltaica hổ Sibêri, Amua và Đông Bắc Trung Quốc, P. tigris amoyensis hổ Nam Trung Quốc, P. tigris corbetti hổ Đông Dương, P. tigris sumatrae hổ sumatra, P. tigris tigris hổ Bengal và 3 giống bị tuyệt chủng là Panthera tigris balica, P. tigris sondaica, P. tigris vigata. Phân bố, sinh thái Trên thế giới, hổ phân bố ở châu Âu Liên Xô trước đây và Châu Á Ấn Độ, Trung Quốc, Myanma, Indonesia, Malaysia, Thái Lan, Lào, Campuchia và Việt Nam, Ở Việt Nam, hổ có mặt ở khắp các tỉnh miền núi trong cả nước. Nhưng do săn bắn nhiều và qua các thời kỳ chiến tranh ở miền Bắc và miền Nam, số lượng hổ đã giảm sút nghiêm trọng, chỉ còn rất ít ở vùng hẻo lánh thuộc biên giới Việt – Lào. Sau đó, người ta lại thấy nó xuất hiện lại ở một số địa phương như Lâm Đồng, Nghệ An, Quảng Trị Hổ sống chủ yếu ở các khu rừng già, có nhiều cỏ tranh, lau lách, cây bụi. Thường sống đơn độc và đi kiếm mồi vào ban đêm. Thức ăn của hổ là hươu nai, hoảng, lợn rừng, bò tót, trâu rừng, đôi khi cả bò, lợn, dê nuôi và những vật rất nhỏ như chim, cá, ếch, bò sát. Mùa sinh sản của hổ không cố định hổ cái và hổ đực ghép đôi trong thời kỳ động dục đến khi có thai. Thời gian có chửa khoảng 3 tháng rưỡi. Mỗi lứa đẻ 2 – 4 con. Hổ con rời mẹ, sống tự lập sau 2 năm tuổi trở lên. Hổ có khả năng trèo cây thường ít trèo, chỉ khi gặp nguy hiển, bơi lội và nhảy xa. Có thể nói hổ là một con vật khỏe và táo tợn nhất ở rừng núi, được mệnh danh là “chúa sơn lâm”. Từ lâu, hổ đã được thuần dưỡng từ nhỏ để làm xiếc, được nuôi trong vườn thú. Bộ phận dùng Toàn bộ xương hổ gọi là hổ cốt, được coi là loại tốt với những tiêu chuẩn, quy cách như sau Gồm đầy đủ các loại xương chi tiết, còn nguyên không vỡ vụn Không lẫn xương các loài thú khác. chất chắc khô, trong rỗng, màu vàng ngà. Trọng lượng từ 7 kg trở lên. Trong đó, quý hơn cả là xương 4 chân và xương đầu chiếm hơn 60% trọng lượng, đặc biệt hai xương cánh chân trước, mỗi chiếc hơi vặn ở khuỷu, có một lỗ gọi là mắt phượng hay thông thiên và răng hàm có 3 đình nhô lên gọi là “tam sơn” điểm khác biệt với các loại xương khác. Người ta đã nghiên cứu và quy định một bộ xương hổ phải đạt những yêu cầu sau Xương đầu nặng 1000 g Xương 4 chân 3390 g Xương sống 900 g Xương sườn 355 g Xương chậu 355 g Xương bả vai 260 g. Xương đuôi 146 g Xương bánh chè 30 g Xương hổ bị trúng thuốc độc có màu đen hoặc xanh lam không được dùng. Cách nấu cao xương hổ cao hổ cốt Chọn xương bằng cách kiểm tra kỹ các loại xương chi tiết trong toàn bộ xương hổ cho đủ, đúng quy cách và đúng trọng lượng. Thông thường theo kinh nghiệm dân gian, người ta hay phối hợp xương hổ với xương gấu, khỉ, sơn dương nhất là sơn dương, với 5 bộ xương sơn dương và 2 bộ xương hổ gọi là “ngũ dương nhị hổ”, hoặc các dược liệu nguồn gốc thực vật. Về vấn đề này, quan niệm có khác nhau. Người thì cho rằng phải có sự hiệp đồng tác dụng giữa các vị chủ lực quân và một số vị hỗ trợ thần. Có người lại nghĩ rằng riêng cao hổ thì mềm, khó bảo quản, mà phải phối hợp để cao có thể chất chắc, cứng, đóng được thành bánh. Đem xương đun sôi với nước trong 30 phút có nơi còn thêm ít lá đu đủ, khuấy lộn xương cho róc hết thịt và gân còn bám dính. Lấy ra, dùng bàn chải tre hoặc lông thép cọ mạnh cho thật sạch , rồi rửa nhiều lần với nước sạch Xương làm sạch được phơi nắng to hay sấy ở 50 – 60°C cho khô. Lúc này, xương có màu trắng và không còn mùi tanh hôi. Ngày trước, người ta bỏ xương còn dính thịt và gân vào một rọ tre, để chỗ nước suối chảy xiết trong 15 – 20 ngày để rửa trôi hết gân thịt, sau đó, treo rọ lên cành cây cho khô. Làm như vậy để loại bỏ các khí xấu khu phong, có lẽ để bay hết mùi hôi thối, Cưa xương thành từng đoạn 10 cm, chẻ nhỏ, nạo hết tủy và lớp xương xốp ở trong, rửa sạch rồi ngâm tẩm. Trước đây, người ta dùng nước luộc rau cải hoặc nước lá ngải cứu có nơi dùng lá trầu không để ngâm xương trong một ngày, một đêm, rồi rửa lại nhiều lần bằng nước, sau đó, tẩm xương với rượu gừng. Hiện nay, người ta chỉ ngâm rượu gừng với lý lẽ 50 kg xương, 1 kg gừng và 5 lít rượu 40 độ Xếp xương vào thùng nhôm, đổ nước cho ngập vài centimet. rồi nấu như nấu cao dê. Ngoài ra, xương hổ đặc biệt là xương cánh chân trước và xương đầu sao vàng hoặc tẩm dầu vừng du hổ cốt, tẩm giấm thố hổ cốt tán nhỏ thành bột, cũng được dùng Thịt hổ và dạ dày hổ được dùng theo các sách thuốc cổ Việt Nam. Nhiều bộ phận khác như thận, gân, mật hổ… lại có tác dụng chữa bệnh theo tài liệu nước ngoài. Thành phần hóa học Xương hổ chứa protid và calci dưới dạng phosphat. Tính vị, công năng Xương hổ và cao hổ cốt có vị mặn, cay, hơi tanh. tính ấm, vào hai kinh thận và can, có tác dung bổ dương, trục phong hàn, mạnh gân cốt, giảm đau nhức, trừ thấp. Thịt hổ có vị ngọt, hơi chua, tính bình, không độc, có tác dụng trừ tà, ích khí, chống sốt rét ngã nước, manh tinh thần. Xương hổ, nhất là cao hổ cốt, là vị thuốc cổ điển trong y học cổ truyền, có giá trị cao, chữa bệnh đau nhức gân Xương, tê thấp, cơ thể suy yếu, đi lại khó khăn, chân tay co quắp, thoái hóa cột sống. Liều dùng hàng ngày. 10 – 20 g xương chưa chế biến dưới dạng thuốc sắc hoặc ngâm rượu uống, 4 – 8 g cao hổ cốt uống với гượu Mặc dầu trong cao hổ cốt đã có một số dược liệu nguồn gốc thực vật, nhưng khi ngâm rượu cao hổ cốt. vẫn có thể thêm các vị cùng tác dụng như thiên niên kiện, cốt toái bổ, đỗ trọng Tuệ Tĩnh Nam dược thần hiệu đã dùng xương hổ trong những trường hợp sau Chữa lưng, chân tê liệt, co rút đau đớn, xương ống chân hổ, xương sống hổ, đều bằng nhau, đập nát, nướng vàng, ngâm rượu, để gần bếp cho nóng 7 ngày, rồi uống đến khi đại tiện được thì thôi. Chữa cước khí Xương hổ đau lưng thì dùng Xương sống, đau chân thì dùng xương ống chân đập vỡ, bôi mỡ hoặc váng sữa, nướng vàng, tán bột, ngâm rượu khi dùng hâm rượu cho nóng mà uống. Chữa đau nhức khớp xương Xương đầu hổ bôi mỡ hoặc váng sữa, nướng vàng, giã nhỏ, ngâm rượu trong 5 ngày đêm rồi uống. Chữa ống chẩn lở loét Xương hổ tán bột. Rắc và vết lở sau khi đã rửa sạch bằng nước vò lá hẹ. Chữa bỏng lửa chưa phồng da Xương hổ đốt cháy, tán bột, trộn với lòng trắng trứng gà, bôi hàng ngày. Tuệ Tĩnh còn dùng thịt hổ chữa sốt rét, nôn ọe. Mắt hổ sấy khô, tán nhỏ, hòa với nước cho đặc cho trẻ uống chữa co giật, mất trợn, chân tay co quắp. Hải Thượng Lãn Ông lại dùng dạ dày hổ chữa được chứng phiên vị; răng hổ chữa chó dại cắn Kiêng kỵ Những người huyết hư, hỏa vương, không được dùng các sản phẩm từ hổ mụn nhọt và chứng mỏi mệt sỏi thận hổ chữa suy nhược cơ thể lâu ngày, đuôi hổ chữa các bệnh về da máu hổ tăng cường tinh thần và thể lực, răng hổ chữa bệnh cuồng điên, hen suyễn, mũi hổ chữa chứng động kinh và co giật ở trẻ em, lông hổ đốt khói xua đuổi rắn, rết, râu mép hổ chữa đau răng; dạ dày hổ chữa đau dạ dày – tá tràng. Ghi chú Do có giá trị cao về mặt y học, nên cao hổ cốt thường bị giả mạo bằng cao nấu từ các loại xương động vật khác. Hiện nay, rất khó có được cao hổ cốt chính hiệu với cách chế biến công phu như sách cổ đã ghi. Trong dân gian, người ta đã thử một số cách để phân biệt cao thật và cao giả, như nếu là cao hổ thật thì ngọn cỏ non cắm trên mặt cao phải héo úa, chó gửi cao phải bỏ chạy và người uống cao thấy có một luồng nóng chạy khắp cơ thể. Hoặc cho chó tiếp xúc với bộ xương hổ, chó sẽ rên hư hử và rúm ró toàn thân Đó là những điều khó có thể tin . Hổ đã được đưa vào sách đỏ của nhiều nước trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Tại Hội nghị quốc tế diễn ra ở Washington Mỹ tháng 12 năm 1997. Tổ chức bảo vệ động vật hoang dã WWF đã thông báo số lượng hổ trên thế giới giảm từ con xuống còn khoảng 5000 – 7000 con. Riêng hổ Bengal, từ con năm 1900 giảm còn con năm 1999. Những nước có hổ đều đã có pháp lệnh cấm săn bắn Liên Xô trước đây, Trung Quốc, Hàn Quốc, Iran và cấm xuất khẩu da hổ Ấn Độ, Pakistan, Nepal. *Nguồn Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam. Hổ còn gọi là Hùm, Cọp, Kễnh, Ông ba mươi, có tên khoa học là Panthera Tigris thuộc họ Felidae. Hổ quê ở phương Bắc, di cư dần xuống phía Nam theo hai đường HỔ CỐT虎骨 Os đang xem Mỡ hổ có tác dụng gì Xuất xứ Danh Y Biệt Lục. Tên Việt Nam Xương Cọp. Tên khác Ô duyệt cốt, Đại trùng cốt Trửu Hậu, Ư thỏ cốt Tả Truyện, Ô trạch Hán Thư, Bá đô cốt, Lý phụ cốt, Hàm cốt, Lý dĩ cốt, Sạm miêu cốt, Bản Thảo Cương Mục, Uy cốt, Hàm cốt, Trành thỏ cốt, Vụ thái cốt Hoà Hán Dược Khảo, Hổ hĩnh cốt, Tứ thối hổ cốt, Hổ đầu cốt, Hổ tích cốt, Hổ lặc Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển. Tên khoa họcOs Tigridis. Mô tả Hổ còn gọi là Hùm, Cọp, Kễnh, Ông ba mươi, có tên khoa học là Panthera Tigris thuộc họ Felidae. Hổ quê ở phương Bắc, di cư dần xuống phía Nam theo hai đường, đường Tây nam châu Á, cạnh cao nguyên Tây Tạng và đường Trung Quốc qua Miến Điện, Đông Dương, tới Inđônêxia, chiều dài cơ thể 180-280cm, đuôi 90cm, nặng có thể tới 272kg, sống ở rừng sâu bụi rậm, đồng cỏ tranh nghĩa là những nơi có nhiều mồi ăn, nước và chỗ tránh nắng. Hổ ăn thịt nhiều loại thú bò tót, trâu rừng, gấu, hươu nai, lợn rừng, sơn dương, báo. Mùa nước lên Hổ ăn cả rùa, lúc đói Hổ không từ cả ếch, nhái, cào cào. Hổ bắt mồi bằng cách cắn cổ hay gáy, và nếu mồi khỏe có thể cắn mông , đùi sau. Thường Hổ ăn mồi từ mông...lôi gan ruột ra ngoài và thường đợi thịt mồi thối rồi mới ăn. Hổ có bộ lông vàng đẹp có nhiều vằn đen, có mấy thứ tiếng kêu. Khi động đực, Hổ gầm lên, tiếng gầm vang rất xa, có ý nghĩa gọi bạn đến để giao hợp. Có khi kêu póc như nai để dụ mồi lại gần. Khi giật mình kêu húp khi giận kêu hừ hừ hay há miệng nhe nanh “khạc” gió. Trong mùa sinh dục cuối mùa đông hay đầu mùa xuân, hổ ghép đôi, và lúc này tính Hổ cũng dữ tợn hơn lúc bình thường. Thời gian chửa khoảng 3 tháng rưỡi. Mỗi lứa đẻ từ 2 -4 con đôi khi tới 5-6 con. Hai ba năm đẻ một lứa. Hổ con sau 2 tháng có thể theo mẹ để kiếm ăn và sống với mẹ tới 1,5-2 tuổi. Hổ trưởng thành khoảng 3-4 tuổi. Hổ sống khoảng 30 năm. Có lẽ vì thế mà có tên là “ông ba mươi”? Hổ là loài thú rừng dữ tợn, người ta gọi nó là chúa sơn lâm cũng không quá. Hổ rất bạo tấn công cả những con thú cao hơn nó như Voi, Bò tót, Trâu rừng... Hổ rất khỏe có thể tha con mồi nặng hơn nó nhiều lần. Hổ có thể trèo cây dễ dàng như mèo, có khi leo được cả cây cao 5-6m. Hổ cũng lội nước được và có lúc bơi xa tới 4-5km. Cũng như nhiều loài ăn thịt khác, Hổ có tập quán cọ vuốt vào các vật cứng để vuốt luôn sắc. Mặc dù bạo tàn như vậy nhưng cũng như tất cả các loài thú rừng ăn đêm, một tiếng động bất thường nào trong đêm tối, cũng làm Hổ nghi ngờ sợ hãi, cho nên người đi rừng thường dùng hai thanh nứa đập vào nhau cũng đủ xua đuổi Hổ chạy. Hổ là một đặc sản động vật chủ yếu của châu Á. Da Hổ đẹp, trị giá cao trên thị trường. Địa lý Có ở miền rừng núi sâu ở Việt Nam, đặc biệt là Hoà Bình, Tuyên Quang, Bắc Thái, dọc Trường Sơn Trung bộ. Phân biệt Cần phân biệt với Beo, Báo Felis Temmincki, Báo gấm Neofelis Nebusa, Báo hoa mai Panthera Pardus Xem Báo. Thu bắt Săn Hổ bằng cách bẫy bắt sống hay dùng tên độc, súng săn. Có thể săn bắt quanh năm. Phần dùng làm thuốc 1- Toàn bộ xương Cọp đều có thể dùng làm thuốc được, xương chân gọi là Hổ hỉnh cốt’ , xương đùi gọi là Hổ thối’, xương sọ gọi là Hổ đầu’, xương cột sống được gọi là Hổ tích’, xương sườn gọi là Hổ lặc’...nhưng tốt nhất là xương 2 ống chân trước humerus, vì khí lực toàn thân con Cọp là chú trọng bởi hai chân trước của nó. 2- Xương Cọp nấu thành cao gọi là Cao hổ cốt Xem Hổ cốt giao. Mô tả dược liệu Xương Hổ có phân biệt Xương đầu, xương cổ, xương mình, gồm xương sống, xương sườn, xương cùng cụt và xương tứ chi, lấy xương tứ chi và xương đầu là tốt nhất, mà trong xương tứ chi thì xương chi trước là tốt nhất, xương lòng bàn chân và kế đó là xương chi sau, xương đầu gối của Hổ thường bán từng cặp, rất quí, thường người ta cho rằng xương hổ lớn trên 5kg và Hổ đực tốt hơn xương Hổ con và Hổ cái. Ví dụ như trong một bộ xương hổ nặng 6kg thì xương đầu nặng 1kg chiếm hết 15% toàn bột trọng lượng cả bộ xương. Xương 4 chân nặng, 3,390kg chiếm 52%. Xương sống kể cả xương cổ nặng 0,900kg chiếm 14%. Xương dườn 13 đôi nặng 0,335kg chiếm 5,5% không kể xương ức. Xương chậu nặng 0,355kg cả hai mảnh chiếm 55%. Xương bả vai nặng 0,260kg chiếm 4% xương cùng cụt nặng 0,146kg chiếm 2,2% hai xương bánh chè nặng 0,030kg chiếm 0,45%. Sắc xương khô cả hổ đã chết màu vàng trắng, ít dầu chất lượng kém nhất, không dùng vào thuốc. Xương Hổ lấy màu vàng ngà, to, tươi, chất nặng, ít da thịt là loại tốt. Xương Hổ do trúng tên độc mà chết có màu xanh trong tủy xương có thể chứa chất độc, không dùng vào thuốc. Xương tứ chi của Hổ thô khỏe, các khớp phình lớn, rất phát triển, mặt ngoài màu ngà, phẳng trơn láng nhuận, chất mịn, cứng nặng, mặt cắt ngang của xương thấp tủy chứa chất béo, loại tươi chứa chất béo rất nhiều, loại cất dấu tương đối lâu thì dầu chất béo tương đối khô, thể hiện chất tủy dạng xơ mướp, có ít chất mỡ, rất thơm mãnh liệt, không có mùi tanh hôi. Xưa nay trong hàng bán Hổ cốt thường hay xen lẫn xương Beo Báo cốt, khó phân biệt, cũng đã từng có xen hàng giả bằng xương Gấu Hùng cốt, xương Heo rừng Dã trư cốt. Do đó việc phân biệt Hổ cốt rất quan trọng, có một số điểm khác biệt của cần lưu ý - Phân biệt giữa xương Hổ và xương Beo - Cả bộ xương Cả bộ xương Hổ thô khỏe hơn so với xương Beo, sắc xương màu vàng ngà, xương đầu to mà tròn. Răng hàm có hình chữ tam sơn’. - Xương chày Hỉnh cốt có “phong nhãn” lỗ thông gió có nơi gọi là Phụng nhãn’ Mắt phụng, hơi vặn ở khuỷu, xương phụ, thô khỏe, khớp rất phát triển, chi trước có 5 ngón, chi sau có 4 ngón, lông da phần mu bàn chân trước và sau màu vàng nhạt tới vàng cam, không lấm tấm mà hơi có vằn sọc ngang màu đen nâu, xương đuôi tương đối thô, và ngắn hơn. - Cả bộ xương Beo Ngắn nhỏ gầy hơn so với xương Hổ, sắc xương trắng xanh, xương đầu nhỏ mà dài, xương chày Beo tuy cũng có phụng nhãn’ xương phụ bang cốt, nhưng tương đối nhỏ mà dài hơn, khớp không phát triển bằng xương Hổ, lông da mu bàn chân màu vàng cam đến màu đỏ cam, có lấm tấm những chấm tròn màu đen, xương đuôi nhỏ mà dài, thể tích xương đuôi Hổ lớn hơn. - Mặt cắt ngang của xương Hổ hỉnh cốt xương chày Hổ sau khi cưa ra chứa chất nhầy tương đối nhiều hơn, loại còn tươi mà đặt nghiêng xương, chất mỡ có thể giọt xuống, dù đã cất dấu lâu ngày, chất dầu cũng không dễ gì khô, khí vị chất dầu thơm hơn, xương chày Beo chứa chất dầu không nhiều bằng xương Hổ. - Phân biệt giữa xương Gấu và xương Hổ Xương chày của Gấu không có phụng nhãn’ và bang cốt’ xương phụ nhỏ mà dài hơnm khớp không phát triển bằng Hổ và Beo. Xương màu vàng ngà nhưng chất nhẹ, để lâu gõ vào nghe tiếng rỗng trong, bên trong không có dầu mỡ. Bào chế Nạo sạch gân thịt còn sót lại trên xương, cưa thành từng khúc dài khoảng 3,5cm. Rán thơm bằng dầu mè hoặc chích bằng cách sao với cát rồi thừa lúc đang còn nóng bỏ vào dấm tôi qua để dùng. Cũng có thể nấu cao chế thành Cao Hổ cốt, hoặc ngâm rượu dùng Xem Hổ cốt giao. Cách dùng Sắc uống hoặc ngâm rượu, nấu cao hoặc tán bột dùng trong thuốc hoàn tán. Tính vị Vị cay, Tính hơi ấm. Quy kinh Vào 2 kinh Can, Thận. Tác dụng Khu phong, hoạt lạc, đồng thời có tác dụngmạnh gân cốt, trị bại liệt. Chủ trị Trị phong thấp, nhức mỏi xương lâu ngày, gân cốt yếu. Liều dùng 3 -8 chỉ. Kiêng kỵ Người huyết hư hỏa thịnh cấm dùng. Bảo quản Để nơi khô ráo. Đơn thuốc kinh nghiệm + Hóc xương dùng xương Cọp tán bột uống với nước lã Ngoại Đài Bí Yếu. + Trị chứng hay quên và hồi hộp, dùng Hổ cốt ngâm sữa, nướng khô, Bạch long cốt chế, Viễn chí sao, ba vị tán bột, uống với nước Sinh khương, uống liên tục 3 ngày, uống lâu càng thêm thông minh Dự Tri Tán - Vĩnh Loại Kiềm Phương. + Trị mông và đùi, hai ống chân đau nhức, mới đau hay đã lâu, dùng 60g Hổ hĩnh cốt nướng vàng giã nát 30g Linh dương giác, 60g Bạch thược cắt ra, cả 3 vị dầm vào rượu cho được 7 ngày, mùa lạnh phải để 10 ngày, mỗi ngày uống1 chén, uống khi đói bụng Bính Bộ Thủ Tập Phương. + Trị lưng gối đau co rút nhức nhối khó chịu, dùng một bộ xương sống và xương ống chân trước đập vỡ rồi cho cả lên trên cái bàn sắt, ở dưới phải đun lửa vừa vừa, bao giờ mỡ chảy ra thì dầm vào bình rượu bịt kín, mùa ấm dầm 7 ngày, mùa lạnh dầm 3 ngày, mỗi ngày uống 3 lần, tùy sức mà uống đến 3 tể mới khỏi Hải Thượng Phương. +Trị chứng Bạch hổ phong’, đau nhói các khớp xương và hai chân sưng nóng, dùng 30g Hổ hĩnh ngâm với sữa, nướng vàng, 30g Hắc phụ tử chế, hai vị đều tán bột, ngày uống 2 lần, mỗi lần 6g với Rượu Kinh Nghiệm Lương Phương. + Trị gân xương đau nhói, dùng xương Hổ và Thông thảo sắc đặc, uống nửa bát, uống khi đói bụng, uống rồi đắp chăn một lúc nằm cho ra mồ hôi, nhưng không nên uống nóng hại tới răng và không nên cho trẻ con uống vỉ sợ răng không mọc được Thực Liệu Bản Thảo. + Trị trĩ, sa trực trường, dùng 2 cái hổ hĩnh cốt, tẩm 60g mật nướng đỏ, tán ra bột, làm viên to bằng hạt đậu, mỗi sáng dậy uống 20 hoàn, với Rượu ấm Thắng Kim Phương. + Chó cắn, dùng xương Cọp tán bột, uống với nước lã và rắc bột vào chỗ bị cắn Tiểu Phẩm Phương. + Bỏng lửa dùng xương Cọp đốt cháy tán bột mà bôi Củng Thị Phương. + Lở chân, sùi vảy, hõm da Dùng Trần bì nấu rửa những chỗ lở cho sạch, tán xương cọp rắc vào Tiên Dân Đồ Soán Phương. + Trị lịch tiết thống phong’ đau nhức các khớp dùng Hổ hỉnh cốt, sao với Rượu 90g, Một dược 7 lượng tán bột, lần uống 6g với Rượu nóng, ngày 3 lần Thánh Tế Tổng Lục. + Trị lịch tiết’, phong thấp khi đau chỗ này khi đau chỗ khác, các khớp đều đau không chịu nổi, dùng Hổ đầu cốt 1 cái ngâm Sữa tô sao vàng, đâm vụn bọc trong lụa ngâm trong 2 đấu rượu trong 5 đêm, uống từ từ Thánh Huệ Phương. + Trẻ con rụng tóc, hói tóc dùng Hổ cốt tán bột trộn dầu bôi vào Phổ Tế Phương. + Trị đau nhức khớp Hổ cốt ngâm Rượu uống Hổ Cốt Tửu - Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách. + Trị đau nhức khớp Hổ cốt, Phụ tử, 2 vị bằng nhau, tán bột, mỗi lần uống 3g ngày 2 lần với rượu Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách. + Trị hàn thấp nhập lạc, gân xương đau ê Hổ cốt, Mộc qua, Xuyên khung, Ngưu tất, Đương quy, Thiên ma, Ngũ gia bì, Hồng hoa, Tục đoạn, Ngọc trúc, Tần giao, Phòng phong, Tang chi Hổ Cốt Mộc Qua Tửu - Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách. + Trị trẻ con yếu xương, người già thận hư xương yếu, đau thắt lưng, yếu chân Hổ hỉnh cốt, Mộc qua, Thiên ma, Nhục thung dung, Ngưu tất, Phụ tử, các vị bằng nhau. Rẩy Rượu tán bột làm viên, lần uống 6g với nước Hổ Cốt Tứ Phiến Hoàn - Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách. + Trị trẻ con yếu xương, người già thận hư xương yếu, đau thắt lưng, yếu chân Hổ cốt 30g, Quy bản 120g, Hoàng bá nửa cân. Tri mẫu 30g, Thục địa, Trần bì, Bạch thược, mỗi thứ 60g, Toả dương 30g 15g, Can khương 15g, Tán bột hồ làm viên, lần uống 9g ngày 2 lần Hồ Tiềm Hoàn - Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách. Tham khảo . Xương cọp làm gối đầu thì nằm ngủ yên không chiêm bao thấy những sự ghê sợ, hoặc treo lên giữa cửa đi vào trừ được ma quỷ Bản Thảo Tập Chú. . Xương cọp chữa được chứng gân xương bị co rút không cử động được, lại chữa được thương hàn, cơn sốt rét, đau bụng và chó cắn Dược Tính Bản Thảo. . Lấy xương cọp nấu nước tắm, người lớn thì trừ được phong đau các khớp xương và sưng thũng, trẻ con thì trừ được các loại phong đau nhức khớp, ác sang, ghẻ lở, động kinh, sau lớn lên không bệnh tật Thực Liệu Bản Thảo. . Cọp sở dĩ khỏe là nhờ xương ống chân của nó. Xem như lúc đó đã chết mà vẫn đứng trơ trơ không ngã, cho nên mới chữa được chứng mỏi gối chùn chân Bản Thảo Hội Biên. + Sách Nhĩ Nhã nói rằng Thứ hổ lông trắng gọi là Sạn miêu’, thứ trắng gọi là Hàm’ thứ đen gọi là Dục’ , thứ có 5 móng chân gọi là Khâu, thứ như Hổ mà không phải gọi là Bưu’ và Hổ có sừng gọi là Tê’ Bản Thảo Cương Mục. + Ngoài ra Hổ còn cho các vị sau để làm thuốc . Hổ Cốt Tửu’ Rượu hổ cốt, người ta chế bằng cách lấy một bộ ống chân Hổ sao vàng giã nhỏ, rắc men ủ thành Rượu, hoặc ho vào cái bao bằng vải rồi dầm. Để chữa đau trong uống chân, nhức khớp xương, thận kém, bàng quang hàn. . Hổ nhục Thịt hổ, có vị chua, khí bình, không độc. Trị buồn nôn, hay nhổ nước miếng, tăng sức. Đời Đường trong Thực Liệu Bản Thảo’ Mạnh Sằn ghi rằng ăn thịt Hổ chữa được cơn sốt rét và trừ các khí. Còn Đào Hoằng Cảnh lại cho rằng ăn thịt hổ không nên ăn nóng vì sợ rụng răng. . “Hổ đỗ” Dạ dày hổ, lấy dạ dày tươi, còn nguyên cả đồ ăn, để lên trên tấm ngói mới sao cháy tán bột. Chữa chứng ăn vào nôn ra. Lấy bột dạ dày hổ 1 cái trộn với Bình Vị Tán’ 30g, mỗi lần uống 9g với nước nóng. . Hổ thỉ’ Phân hổ, lấy phân hổ đốt cháy tán bột, uống với rượu chữa chứng ghẻ lở. Đời Minh sách Bản Thảo Cương Mục’ Lý Thời Trân nói rằng phân hổ chữa nhọt độc, trĩ, hóc xương các loài thú. . “Hổ chi” Mỡ hổ dầm với rượu nóng uống chữa được thương tích do đập đánh, chấn thương. Mỡ hổ trộn với Dầu mè, rượu nóng uống chữa được chứng ăn vào mửa ra. . “Hổ thận” Thận hổ, ăn quả Thận hổ thái mỏng bóp dấm thanh và Gừng chữa được loa lịch lao hạch cổ. . “Hổ tình” Tròng mắt hổ. Sách Lôi Công ghi rằng, dùng mắt Hổ phải hỏi cho biết con đực hay con cái, già hay trẻ, và đâm chết hay bắn chết, nếu bị bắn thuốc độc thì không dùng. Khi dùng phải trộn với huyết dê một đêm, sáng ngày vớt ra, rồi đun lửa vừa vừa sao khô, tán bột. Lý Thời Trân nói rằng, bài thuốc trong Thiên Kim chữa chứng điên có dùng Hổ Tình Thang’ và Hồ Tình Hoàn’, đều ngâm Rượu, sao khô, ủ, Đời Đường sách Thực Liệu Bản Thảo’ của Mạnh Sằn cho rằng mắt hổ chữa được cơn sốt rét và trẻ con phát sốt kinh sợ. Đời Tống, sách Bản Thảo Nhật Hoa’ cho rằng mắt hổ chữa các chứng bệnh trẻ con như cam, giật mình khóc vì khách lạ, khóc dạ đề, an thần, định chí. Đời Minh, sách Bản Thảo Cương Mục’ Lý Thời Trân cho rằng lòng mắt hổ chữa đau mắt có mây và làm cho mắt sáng thêm. . Hổ cao’ Cao mỡ hổ, lấy mỡ hổ cô lửa cho đặc như cao, chữa chó cắn bị lở ra, Đời Đường sách Thực Liệu Bản Thảo’ Mạnh Sằn ghi rằng cao mỡ hổ bôi vào hậu môn chữa các chứng trĩ và đi cầu ra máu. Đời Minh sách Bản Thảo Cương Mục’ Lý Thời Trân nói cao mỡ Hổ chữa được chứng ăn vào mửa ra, trẻ con lở đầu, xùi vẩy trắng. Ăn vào mửa ra thì uống trong, lở loét thì lấy mỡ chiên lên rồi bôi. . Hổ tỵ’ Mũi hổ, mũi hổ chữa chứng điên và trẻ con bị động kinh, Đời Nam Bắc triều, Đào Hoằng Cảnh nói, mũi Hổ treo lên ở cửa ra vào thì sinh quý tử. . Hổ đởm’ Mật hổ, mật Hổ chữa bị đánh trọng thương, gần chết không ăn uống gì được, huyết ứ lại, đại tiểu tiện bí, nguy hiểm. Cách chế là bóc lớp da ngoài, nghiền nhỏ ngâm vào dấm thanh, hòa bột Phục linh uống với Rượu, Mật hổ cũng chữa được các chứng cam, kiết lỵ, kinh giản trẻ con, uống với nước sôi nguội. . Hổ tu’ Râu hổ, chữa đau sâu răng, dùng râu Hổ xỉa răng là khỏi. . Hổ trảo’ Vuốt hổ, vuốt và lông ngón chân hổ đều dùng được, nhưng dùng thứ của con đực thì mới hay, kinh nghiệm dân gian thường lấy vuốt và lông bịt bạc cho trẻ con đeo trừ được tà khí. Sách Ngoại Đài Bí Yếu’ cho rằng vuốt hổ tránh quỷ mị. Lấy vuốt Hổ, Giải trảochân con cua Xích hùng hoàng, 3 vị đều tán bột hòa với nhựa thông làm thành viên, vào ngày mùng 1 đầu năm đốt lấy khói như hương, quanh năm có thể trừ được tà khí ác độc. . Hổ nha’ Răng hổ mài lấy nước bôi, chữa đàn ông lở ở hai bẹn, mụn nhọt có lỗ hõm vào. Đời Minh, sách Bản Thảo Cương Mục’ của Lý Thời Trân ghi rằng, răng Hổ cạo lấy bột hòa với Rượu uống chữa chó dại cắn và trừ lao trùng. . Hổ bì, Cao tỳ’ Da hổ da Hổ chữa cơn sốt rét, Bản Thảo Cương Mục’, Lý Thời Trân nói rằng Da Hổ trừ được tà khí, da đốt thành than tán bột. Nhưng phải cẩn thận chú ý làm cho hết thêm 55+ Món Ngon Hà Nội Ăn Gì Nào? Hà Nội Ăn Gì . Hổ là chúa của các loại thú rừng ở phía tây, cho nên thông với khí của hành kim, phong theo Hổ, Hổ gầm mà sinh phong, phong thuộc hành mộc, Hổ thuộc hành kim. Mộc bị kim chế làm sao mà chẳng theo, cho nên có thể vào tận trong xương mà đuổi phong, khỏe gân mạnh xương, nhưng Hổ khỏe dữ lắm chỉ nhờ ống chân trước, vì khi nó chết mà chân vẫn thẳng không ngã, cho nên xương ống chân mạnh gấp trăm lần so với xương ở nơi khác, mượn khí hữu dư của nó để bổ cho các chứng bệnh bất túc, vị cay hơn nóng đã ẩm thụ khí dữ tợn, lại có công năng tân tán cho nên dùng để đuổi tà trừ ác, kinh giản, bệnh điên, và chạy từ gân suốt tới xương nếu đau ở eo lưng và lưng thì nên dùng xương sống Dược Phẩm Vậng Yếu. Hổ Tên khác Cọp, hùm, beo, khái, ông ba mươi, tu xưa Tày Tên khoa học Panthera tigris L. Họ Mèo Felidae MÔ TẢ Thú cỡ lớn, to khỏe có thân thẳng dài. Đầu to tròn, cổ và tai ngắn, mắt sáng, 4 chân dài khỏe, có vuốt rất sắc. Đuôi dài bằng nửa thân. Lông màu vàng, có vằn đen không đều suốt từ đầu đến chót đuôi và bốn chân phía trên. Bụng có lông trắng. Hổ PHÂN BỐ, NƠI SỐNG Trên thế giới, hổ phân bố ở Liên Xô trước đây, Ân Độ, Trung Quốc, Inđônêxia, Thái Lan, Mianma, Lào, Campuchia, Việt Nam. Ở Việt Nam, hổ sống hoang dã ở các tỉnh miền núi nơi có nhiều cỏ tranh, lau lách, cây bụi, rừng già. Sống riêng lẻ chỉ ghép đôi trong thời kỳ động dục, ăn thịt các loài thú khác như hươu, nai, lợn rừng, trâu rừng, đôi khi cả những vật nuôi như bò, dê. Hổ đẻ 2 – 4 con cho mỗi lứa. Hổ đã được thuần dưỡng để làm xiếc và nuôi trong vườn thú. BỘ PHẬN DÙNG, THU HOẠCH, CHẾ BIẾN Toàn bộ xương hổ gọi là hổ cốt, được coi là quý nhất trong các loại xương động vật. Trọng lượng nguyên bộ nặng từ 7 kg trở lên, xương phải to, chắc, sạch gân thịt, khô có màu vàng ngà, không vỡ vụn. Xương đầu và xương 4 chân được coi là quý hơn cả, đặc biệt hai xương cánh chân trước, mỗi chiếc có một lỗ gọi là mắt phượng hay thông thiên và răng hàm có 3 đỉnh nhô lên gọi là “tam sơn”. Đây là những nét đặc thù của xương hổ để phân biệt với các loại xương khác. Để đảm bảo chất lượng thu mua, tránh thiếu hụt và đánh tráo, người ta đã quy định các loại xương trong .toàn bộ như sau xương đầu, xương cổ, xương sống, xương sườn, xương chậu, xương bả vai, xương đuôi, xương bánh chè. Xương hổ bị trúng độc có màu đen hoặc xanh lam, không được dùng. Toàn bộ xương hổ phải được nấu thành cao gọi là cao hổ cốt dùng mơi tốt. Trước khi nấu, cần kiểm tra kỹ các loại xương trong nguyên bộ cho đủ, đúng quy cách và đúng trọng lượng. Trong dân gian, người ta hay nấu xương hổ với xương gấu, khỉ hoặc sơn dương hoặc các dược liệu gốc thực vật để có sự hiệp đồng tác dụng giữa vị chủ lực với một số vị hỗ trợ và bảo đảm sự bảo quản được lâu bền. Để nấu cao, cần qua 3 giai đoạn là làm sạch, tẩm sao và nấu cô. Làm sạch Đem xương đun sôi với nước trong 30 phút, có thể thêm ít lá đu đủ. Khuấy lộn xương cho róc hết thịt và gân còn dính lại. Lấy ra, dùng bàn chải tre hoặc lông thép cọ mạnh cho thật sạch nhiều lần rồi rửa với nước sạch. Xương đã được làm sạch, đem phơi nắng to hay sấy ở 50 – 60°c cho khô. Lúc này, xương có màu trắng, sạch thịt và không có mùi tanh hôi. Ngày trước, người ta bỏ xương còn dính thịt và gân vào một rọ tre, để chỗ nước suối chảy xiết trong 15-20 ngày để rửa trôi hết gân thịt, rồi treo rọ lên cành cây cho khô. Làm như vậy để loại bỏ hết các khí xấu khu phong, có lẽ để làm bay hết mùi hôi thối. Cưa xương thành từng đoạn dài lOcm, chẻ nhỏ, nạo hết tủy và lổp xương xốp ở trong. Có nơi, người ta đun sôi với nước giấm 10 kg xương dùng 3 lít giấm rồi mới nạo tủy. Rửa sạch, rồi ngâm tẩm. Tẩm sao Có nhiều cách tẩm. Trước đây, người ta dùng nước luộc rau cải hoặc nước ngâm lá ngải cứu có nơi lại dùng lá trầu không để ngâm xương trong một ngày, một đêm, rồi rửa lại nhiều lần bằng nước, sau đó, tẩm xương với rượu gừng. Hiện nay người ta chỉ ngâm rượu gừng với tỷ lệ 50 kg xương, 1 kg gừng và 5 lít Ị-ượu 40°. Đem sao qua không sao vàng. Nấu và cô cao xếp xương vào thùng nhôm, ở giữa đặt một rọ tre để múc dịch chiết ra. Đổ nước ngập xương chừng 10cm. Đun sôi liên tục trong 24 giờ, nếu cạn nước thì gia thêm nước sôi vào, luôn giữ cho mức nước lúc nào cũng ngập xương. Rút nước chiết lần thứ nhất, đem cô riêng. Tiếp tục thêm nước sôi và đun 24 giờ nữa. Rút nước chiết lần thứ hai, cô riêng. Tiếp tục làm lần thứ ba. Khi cô nước chiết lần cuối gần được thì dồn số cao của hai lần trước vào, đánh đều, cô tiếp đến khi được cao đặc. Chú ý khi cô, đừng để cao đặc quá làm lượng cao thu được thấp, khó đổ thành bánh. Nhưng cũng không lấy cao còn quá mềm, sau này, cao hay bị chảy và môc. Tốt nhất là cô đến khi dùng đũa nhúng vào cao và nhấc lên không thấy cao chảy là được. Và phải cô cao ở lửa nhỏ, khuấy luôn tay để cao khỏi bị khê, cháy. Khi cao đã được, đổ vào khay đã bôi dầu lạc, mỡ lợn hoặc trải lá chuối cho khỏi sát dính. Để nguội, cắt cao thành bánh chừng 50 – 100g, gói giấy bóng hay ni lông, bảo quản ở chỗ kín, khô và mát. Ngoài ra, thịt hổ, dạ dày hổ và răng hổ cũng được dùng theo các sách thuốc cổ của Việt Nam và nước ngoài. THÀNH PHẦN HÓA HỌC Xương hổ chứa protid và calci dưới dạng phosphat. Cao hổ cốt chứa nhiều acid amin. CÔNG DỤNG VÀ LIỀU DÙNG Xương hổ, nhất là cao hổ cốt là vị thuốc cổ điển có giá trị chữa bệnh cao trong y học cổ truyền và kinh nghiệm dân gian. Xương và cao có vị mặn, cay, hơi tanh, tính ấm, có tác dụng bổ dương, trục phong hàn, mạnh gân cốt, giảm đau nhức, trừ thấp, chuyên trị bệnh đau nhức gân xương, cơ thể suy yếu, kém hoạt động, đi lại khó khăn, chân tay co quắp, thoái hóa cột sống. Liều dùng hàng ngày 10 – 12g xương chưa chế biến dưới dạng thuốc sắc hoặc rượu ngâm; 4 – 8g cao hổ cốt uống với rượu. Cao hổ cốt còn được ngâm thành rượu hổ cốt cùng với nhiều vị thuốc khác. Tuệ Tĩnh còn dùng thịt hổ chữa sốt rét, nôn mửa. Hải Thượng Lãn Ông lại dùng dạ dày hổ chữa chứng phiên vị; răng hổ chữa chó dại cắn. Kiêng kỵ Những người huyết hư, hỏa vượng, không được dùng các sản phẩm từ hổ. BÀI THUỐC Chữa cước khí Xương hổ đau lưng thì dùng xương sống, đau chân thì dùng xương ống chân đập vỡ thành mảnh nhỏ, bôi mỡ hoặc váng sữa, nướng vàng, tán bột, ngâm rượu. Khi dùng hâm rượu cho nóng mà uống Nam dược thần hiệu. Thuốc hổ máu, làm mạnh gân cốt Xương cánh chân hổ 100g, ngưu tất 60g, thục địa 60g, ý di 10g. Ngâm với 1 lít rượu. Ngày uống hai lần, mỗi lần 1 chén nhỏ. Ghi chú Cao hổ cốt hay bị giả mạo bằng cao nấu từ xương các động vật khác, cần chú ý phân biệt tránh nhầm lẫn. Hổ đã được đưa vào Sách Đỏ để bảo vệ triệt để. Cao hổ cốt được coi là “thần dược” chữa trị các bệnh về xương khớp, giảm đau, suy nhược cơ thể…Tuy nhiên cao hổ cốt không có tác dụng chữa “bách bệch” như người ta thường nghĩ. Khi dùng cao hổ cốt, người bệnh cần phân biệt cao thật, cao giả và những lưu ý khi sử dụng sản phẩm đang xem Tác dụng của mỡ hổCao hổ cốt được coi là “thần dược” chữa trị các bệnh về xương khớp, giảm đau, suy nhược cơ thể…Tuy nhiên cao hổ cốt không có tác dụng chữa “bách bệch” như người ta thường nghĩ. Khi dùng cao hổ cốt, người bệnh cần phân biệt cao thật, cao giả và những lưu ý khi sử dụng sản phẩm đang xem Mỡ hổ có tác dụng gìCao hổ cốt thành hổ cốt là gì?Cao hổ cốt là hỗn hợp thu được khi đem đun toàn bộ xương, cốt của một hoặc nhiều con hổ ở một nhiệt độ và thời gian nhất phần của cao hổ cốtTrong cao hổ cốt có chứa nhiều thành phần như các loại acid amin, protein, chất khoáng… Có thể kể tới các thành phần chính của cao hổ cốt như calcium carbonat, magiesium đó collagen là hoạt chất của hổ cốt chứa 17 amino-acid, lượng acid amin trong xương hổ cao gấp 900 các loại xương động vật khác và có tỷ lệ đạm toàn phần rất cao…Tác dụng của cao hổ cốtCao hổ cốt có vị mặn, tính ấm, vào được hai kinh can và dưỡng cơ thể + phòng chống các bệnh liên quan đến xương khớpBổ dương, trục phong hàn, trấn thống giảm đau.Làm mạnh gân cốt, trừ các chứng tê thấp, đau nhức gân xương, đi lại khó khăn, chân tay co quắp, thoái hóa xương khớp, suy nhược cơ thể…Những lưu ý khi dùng cao hổ cốtKhi sử dụng cao hổ cốt cần lưu ý nhiều điểm để có hiệu quả dùng tốt mà không gây ra các tác dụng bất lợi. Đây là một loại dược liệu đã ứng dụng lâu đời trong Đông Y tuy nhiên, không phải ai cũng nên dùng, nhất là một số người muốn dùng để tẩm nhiêu Tuổi mới nên dùng cao hổ cốtĐàn ông từ 40 tuổi trở lênPhụ nữ từ 35 tuổi trở ý Khi dùng cao hổ cốt phải có sự chỉ định của thầy thuốc. Cao hổ cốt chủ yếu sử dụng cho những người lớn tuổi khi thận khí bắt đầu suy, xương cốt bắt đầu lão hóa…2. Cách dùng cao hổ cốtNgày dùng 6 – 12g, thái miếng nhỏ ngậm cho tan trước khi đi rượu để uống 1 lạng cao trong 1 lít rượu để càng lâu càng tốt. Thời gian ngâm ít nhất là 1 Cách phân biệt cao thật, cao giảCao thậtCao hổ cốt thực nấu với tỷ lệ 5 hổ một sơn dương, nấu đúng kĩ thuật thì có mầu vàng ngà hơi trong, người lành nghề có thể kiểm định hổ cốt rất hiếm trên thị trường, hầu như không thể mua được cao hổ cốt giả Nấu bằng xương chó, xương khỉ..Nấu bằng xương trâu, bò, lợn..Màu nâu đen, không trong và không có màu vàng dân gian, có một số cách thử cao hổ cốt thật – cao hổ cốt giảCao hổ thật thì khi cắm ngọn cỏ tươi trên mặt cao thì ngọn cỏ phải héo úa,.Cao hổ thật khi chó ngửi thấy phải bỏ chạy hoặc khi tiếp xúc, chó sẽ rên hư hử và rúm ró toàn uống cao sẽ cảm thấy một luồng khí nóng chạy khắp cơ thể…Tuy nhiên những cách thử này vẫn thiếu căn cứ khoa kiêng kỵ khi dùng cao hổTheo y học cổ truyền, cao hổ có tính nóng và trợ dương khá mạnh nên những người mắc các chứng bệnh thuộc thể âm hư hỏa vượng không được uốngNgười gầy, hay có cảm giác nóng trong hoặc sốt về hay có cơn bốc hỏa, đầu choáng mắt hoa, tai ù tai điếc, lòng bàn tay và bàn chân nóng, trong ngực rạo rực không gò má đỏ, môi khô miệng khát, đổ mồ hôi tiện táo kết, tiểu tiện sẻn đỏ, chất lưỡi đỏ, không hoặc ít có rêu lưỡi…Những người bị tăng huyết áp, gan, thận cấm chỉ định dùng cao xương họa vì nghe lời đồn thổi về cao hổ cốtÔng 60 tuổi, Hà NộiÔng H bị đau xương khớp, nhất là mỗi khi trở trời, cơn đau dai dẳng rất khó chịu….Nghe theo lời đồn thổi xương bánh chè hổ không chỉ trị đau xương khớp mà còn giúp tăng cường sức mạnh quý ông, nên ông nhờ người quen mua được hai chiếc xương bánh chè hổ với giá hơn trăm triệu đồng về mài nhiên, dùng chưa hết cái xương bánh chè thứ nhất, chân chưa khỏi thì người ông đã thấy mệt mỏi, chán ăn, đi tiểu nhiều lần trước đó anh không có tiền sử bệnh gan, thận. Đi khám, bác sĩ kết luận ông H bị suy thận độ 3, gan yếu và phải chạy thận nhân tạo… “Ý kiến của chuyên giaBác sĩ-Thầy thuốc Nhân dân Nguyễn Xuân Hướng – nguyên Chủ tịch Hội Đông y Việt Nam – cảnh báo“Dân gian đồn thổi xương bánh chè hổ có tác dụng chữa bệnh thấp khớp, xương khớp sưng đau hay bồi bổ tăng cường sức mạnh… nhưng chưa được kiểm chứng, chứng tế trong các sách đông y trong và ngoài nước đều không nói đến chuyện mài xương hổ để uống, mà chỉ dùng để nấu cao. Việc mài xương bánh chè hổ ra uống là rất độc, sẽ ảnh hưởng tới gan và phần hóa học của xương hổ gồm Canxi, phốtpho, protein, chất keo để thủy phân cho các axít amin. Xương có tính chất quy kinh, vị mặn, tính ấm, quy vào kinh thận, kinh cân tác dụng vào gan, thận, công dụng trục phòng hàn, bồi dưỡng gân cốt. Xương hổ dù để nấu cao cũng phải làm rất sạch, bỏ hết thịt, gân, tủy, nếu không làm sạch sẽ hỏng cao, nấu xong dễ sinh dòi, thậm chí còn gây độc cho người và tủy của hổ không có tác dụng với xương, thậm chí làm cho đau thêm bởi có chất gây đau, gây độc. Kể cả xương bánh chè cũng cần phải loại bỏ hết gân và tủy, phải ngâm tẩm với nước gừng, sao khô và tẩm rượu, phơi khô trong nơi râm vài ba tháng…Nếu uống sống xương tươi, còn tủy rất nguy hiểm, đặc biệt hại gan và thận vì đi vào hai kinh này trước. Đặc biệt, thận sinh ra xương cốt, thận hổ cũng vậy. Hổ ăn thịt sống và thịt thối đều tiêu hóa được, người không ăn được như hổ nên khi uống xương hổ vào có thể cấp tính gây suy thận hoặc tích độc gây suy gan, hỏng thận….Trung tâm Dị ứng miễn dịch lâm sàng và chống độc Bệnh viện Bạch Mai đã phải tiếp nhận và điều trị cho không ít bệnh nhân bị các phản ứng dị ứng và nhiễm độc suy gan, thận…, thậm chí tử vong do các sản phẩm có nguồn gốc tự nhiên như sừng tê giác, mật gấu, xương cao hổ…”ThS Hoàng Khánh Toàn“Hổ là loài được ghi trong sách Đỏ để bảo vệ nên không được phép khai thác. Hiện nay, kẻ xấu tìm mọi phương cách chế ra cao hổ cốt rởm để trục dùng các loại cao xương động vật khác như trâu, bò, lợn, gà… mạo danh là cao hổ cốt để bán với giá tương đương hoặc chỉ dùng một chút cao hổ thật để nấu lẫn nhưng với tỉ lệ không đáng là sợ nhất là hiện nay người ta dùng các kỹ xảo tinh vi phù phép, đánh bóng, gọt giũa các loại xương gấu, xương trâu, xương bò, xương chó… tạo ra những bộ xương hổ rởm như thật để bán trục lợi. Thậm chí, họ còn nhuộm lông loài chó của Thái Lan để biến thành những con “hổ tươi, nguyên con, ướp lạnh”. Để cho có hiệu nghiệm tức thì, họ còn trộn tân dược có tác dụng chống viêm, giảm đau mạnh để lừa những người đang bị hành hạ bởi chứng đau khớp. Như vậy là tiền mất, tật mang”Lời kếtNgoài ra, sự quý hiếm của loại động vật này và sự đồn thổi về hiệu quả của nó đã khiến một bộ phận những người xấu lợi dụng cơ hội đó để nấu cao giả đem bán cho người bệnh. Vì vậy, việc mua cao hổ cốt thật là rất khó…Người bệnh cần lưu ý, khi có nhu cầu dùng cao hổ cốt, cần theo sự chỉ định của bác sỹ để tránh những vấn đề về độ tuổi, nguyên tắc kiêng kị….khi sử dụng loại cao này. Nấm mỡ trắng có chứa polysaccharide, một loại thuốc trị tiểu đường tự nhiên có thể cải thiện tình trạng rối loạn dung nạp glucose cũng như giảm lượng đường trong máu và giảm hoạt động của enzyme α-amylase. Do đó, loại nấm này có thể giúp bạn cải thiện nhiều triệu chứng của bệnh. 6. Tốt cho đường ruột Nấm mỡ trắng giúp tăng hệ vi sinh tốt trong ruột và giảm vi khuẩn xấu trong đường tiêu hóa. Hơn nữa, loại nấm này còn bảo vệ bạn khỏi các tổn thương đường tiêu hóa do nhiệt vì nhờ có chứa selen. Đây là một hợp chất có hoạt tính sinh học và có thể giúp bạn giảm nhẹ tình trạng rò rỉ đường ruột, tổn thương biểu mô và lớp bảo vệ do stress oxy hóa. Các nghiên cứu cho thấy nấm có thể có lợi hơn thịt vì có tác dụng nhuận tràng và cải thiện sức khỏe đường ruột. 7. Đẩy lùi lão hóa Polysaccharide trong nấm mỡ trắng là một chất chống oxy hóa rất tốt giúp phục hồi và cải thiện các dấu hiệu lão hóa bằng cách trung hòa các gốc tự do và ngăn ngừa các bệnh liên quan đến tuổi tác. Loại nấm này có thể giúp bạn đẩy lùi lão hóa và duy trì sự trẻ trung rất tốt đấy. 8. Hỗ trợ giảm cân Oligopeptide và các chất xơ có trong nấm mỡ trắng có giá trị dinh dưỡng cao nên có thể giúp bạn ngăn ngừa tình trạng tăng cân quá mức, giảm chu vi bụng và tăng cảm giác no mà không mất đi cảm giác ngon miệng. Đây là nguyên liệu phù hợp giúp bạn cung cấp chất dinh dưỡng cho cơ thể mà không bị tăng cân. 9. Tăng cường não bộ Nấm mỡ trắng là nguồn chứa nhiều chất chống oxy hóa tốt như ergosterol. Chất này có thể chuyển đổi thành vitamin D2 và có thể giúp bạn phát triển hệ thần kinh trung ương. Điều này có nghĩa là nấm mỡ trắng có thể giúp bạn tăng cường trí nhớ một cách tự nhiên để điều trị các chứng rối loạn nhận thức, sa sút trí tuệ, Alzheimer và các bệnh thoái hóa thần kinh khác. 10. Giúp xương chắc khỏe Ergosterol trong nấm mỡ trắng là nguồn vitamin D2 tự nhiên khi được tiếp xúc với tia UV. Vitamin D rất cần thiết cho sự hấp thụ canxi và sức khỏe của xương. Tình trạng thiếu hụt vitamin D có thể khiến xương không chắc khỏe cũng như dẫn đến chứng loãng xương ở người lớn. Thói quen ăn nhiều nấm giúp bạn cải thiện quá trình khoáng hóa xương và ngăn ngừa loãng xương. 11. Cải thiện tinh trùng Selen trong nấm mỡ trắng giúp bạn cải thiện việc sản xuất tinh trùng cũng như chất lượng tinh trùng. Nam giới có thể bổ sung thêm loại thực phẩm này nếu muốn nhanh có tin vui. 12. Chống viêm nhiễm Polysaccharide, terpenoid, hợp chất phenolic và nhiều hợp chất hoạt tính sinh học khác trong nấm mỡ trắng có khả năng chống viêm mạnh. Bạn có thể bổ sung loại nấm này nếu muốn bảo vệ mình khỏi các chứng viêm nhiễm thường gặp. 13. Kháng vi khuẩn Nấm mỡ trắng là một nguồn giàu saponin, flavonoid, tannin và glycoside trợ tim có thể bảo vệ bạn khỏi các loại vi khuẩn khác nhau như Escherichia coli Bacillus subtilis Staphylococcus aureus Klebsiella pneumonia Proteus Vulgaris Nấm mỡ thường xuất hiện quanh năm trên thị trường nên tương đối dễ tìm mua. Để mua được nguyên liệu tươi ngon, bạn có thể lưu ý những điểm sau – Chọn nấm tươi, sạch, chắc. – Tránh những cây nấm bị đổi màu, có đốm đen hay bị khô. – Không nên mua những cây nấm ướt hay nhớt. Bạn cũng có thể tìm mua nấm mỡ đóng hộp trong siêu thị. Trong trường hợp này, bạn nên lựa nấm từ những thương hiệu uy tín và kiểm tra kỹ hạn sử dụng. Nấm mỡ rất dễ bị hư nhưng bạn có thể bảo quản loại nấm này trong 3 – 5 ngày nếu biết cách. Sau khi mua nấm về, bạn có thể cho nấm vào túi giấy hoặc xếp nấm vào hộp có lót giấy thấm nước. Cách bảo quản này sẽ giúp nấm tươi trong khoảng 3 ngày. Nếu bạn mua nấm được gói trong túi đã hút chân không, hãy bảo quản trong tủ lạnh trong khoảng 14 ngày. Bạn lưu ý rằng nấm mỡ đã được thái lát sẽ bị hư sớm hơn khoảng thời gian trên. Trước khi dùng nấm nấu ăn, bạn nên nhẹ nhàng lau cây nấm để loại bỏ bụi bẩn. Bạn cũng có thể rửa nấm thật nhanh qua nước lạnh trước khi dùng nấm nấu ăn. Bạn có thể thái lát nấm mỡ để bỏ vào các loại súp hoặc thái hạt lựu để bỏ vào các món hầm hay món xào. Nấm mỡ trắng dễ tìm mua mà lại nhiều dinh dưỡng nên là nguyên liệu thích hợp cho những bữa cơm hằng ngày. Những tác dụng của nấm mỡ cũng rất đa dạng nên sẽ giúp bạn bảo vệ sức khỏe rất tốt đấy. Như Vũ HELLO BACSI

công dụng của mỡ hổ